Lịch sử giáo xứ Làng Anh
I. Vài Nét Về Lịch Sử Thành Lập Giáo Xứ
Năm 1846, giáo phận Nam Ðàng Ngoài được thành lập, tách từ giáo phận Tây Ðàng Ngoài. Về sau gọi là giáo phận Vĩnh, rồi giáo phận Vinh. Theo lịch sử truyền khẩu của các bậc tiền nhân để lại nơi Cha Ông trên địa danh này (Cụ Quán Thông, Cụ Bang, Cụ Tổng... nhắc lại cho con cháu).
Vào những thập niên đầu thế kỷ 19 khoảng 1929 - 1932. các nhà thừa sai đã rảo bước trên những vùng rộng lớn nơi đây để gieo hạt giống Ðức Tin trên mảnh đất phì nhiêu này. Qua các vùng: Biển Cảnh (nay là Trang Cảnh Ðá Dựng (nay là Lập Thạch), Cửa Lò (nay là Tân Lộc, Lộc Mỹ), Thôn Trại (nay là Yên Ðại), Vĩnh Cầu (nay là Cầu Rầm).
Công cuộc truyền giáo hình thành như sau: từ năm 1840 - 1850 sau khi tham khảo cả một vùng rộng lớn này rải rác từ Cửa Lò sang Cửa Hội đến Vinh (khi đó còn gọi là Vịnh), một vùng dân cư có nếp sống nông thôn nghèo hầu hết thờ ông bà & 50% là chùa chiền của Ðạo Phật. Các nhà thừa sai đã khéo léo gieo hạt giống Ðức Tin vào các làng mạc và đã có tổ chức thành các làng công giáo.
Ðợi cho đến thời Ðức Cha Ngô Gia Hậu (Gauthier ) đầu năm 1853 vào dịp lễ Phục Sinh, một vinh dự bất ngờ đến cho giáo xứ Cả Anh, được chính thức nhận là Trụ Sở Trung Tâm của miền truyền giáo (Chân Lộc) gọi đây là xứ Cả Anh (theo như các Cố Tây cắt nghĩa, Cả Anh: nghĩa là anh cả, sau này để gọi cho đúng việt ngữ đổi ra Làng Anh nghĩa là Anh của các làng khác. Vậy là sau 7 năm thành lập giáo phạn Vinh, thì giáo xứ Làng Anh được thành lập, một giáo xứ được các Cha thừa sai rất quan tâm.
- Những yếu tố đáng lưu ý mà xứ Cả Anh được chính thức nhận là Xứ Cả 1853:
1. Sống giữa một vùng chùa chiền nguy nga của các tôn giáo khác nhưng họ không bị lấn át bởi thế vô thần lẫn bụt thần.
2. Luôn luôn vâng phục Giáo Hội và các Ðấng coi sóc, gìn giữ và bảo vệ các Ngài qua những biến cố khó khăn nhất trong lịch sử xưa và nay.
3. Bản chất dân thật thà, hiền lành, tốt bụng, cần cù, siêng năng, đoàn kết.
4. Là địa danh trung tâm cho vùng Chân Lộc thời bấy giờ, chỉ sau mấy tháng đứa con đầu tiên đã ra đời là xứ Lộc Mỹ và tiếp tục sinh ra những xứ hạt khác theo lược đồ sau đây:
II . Lược Ðồ Giáo Xứ Phát Triển Của Giáo Xứ Làng Anh
________________________________________
Lược Ðồ Giáo Xứ Phát Triển Của Giáo Xứ Làng Anh
- Giáo Xứ Làng Anh Sinh Ra:
- Giáo xứ Lộc Mỹ (1853)
--> Giáo xứ Tân Lộc (1908) (nay là Giáo Hạt Cửa Lò).
--> Giáo xứ La Nham (1925).
- Giáo xứ Mỹ Dụ (1869)
--> Giáo xứ Cầu Rầm 1888 (nay là Giáo Hạt Cầu Rầm).
--> Giáo xứ Gia Hoà (1889).
--> Giáo xứ Cam Lâm (1895).
--> Giáo xứ Phù Long (1920).
- Giáo xứ Lập Thạch (1887).
- Giáo xứ Trang Cảnh (1914).
- Giáo xứ Yên Ðại (1923).
- Giáo xứ Làng Nam (1927)
Tổng cộng 10 xứ và 2 giáo hạt được sinh ra từ giáo xứ Làng Anh.
III. Những Bước Thăng Trầm Của Giáo Xứ Làng Anh
Hình ảnh giáo xứ Làng Anh kiên cường trước những cơn bách hại.
Giáo xứ Cả Anh cũng như giáo hội Việt Nam phải đương đầu với cơn bách hại khủng khiếp kéo dài cho tới năm 1888. Cuộc bắt đạo lúc đầu có vẻ thất thời theo hứng của Vua Chúa. Nhưng tới khi Vua Gia Long nằm xuống năm 1820, các vua triều Nguyễn là Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Ðức, vì tinh thần bài ngoại và lầm tưởng theo Ðạo là bỏ ông bà tổ tiên, đã ra lệnh trên toàn quốc triệt hạ thánh đường, xử tử các Giáo Sĩ và tất cả những giáo dân nào bất tuân lệnh nhà Vua. Những hành động này đã đưa tới việc liên quân Pháp và Tây Ban Nha can thiệp vào nội bộ Việt Nam, ép buộc vua Tự Ðức ký hoà ước nhận quyền bảo hộ của Pháp, đồng thời chấm dứt việc sát hại người Công giáo năm 1883.
1. Vua Tự Ðức (1847-1883): Có 13 Sắc Chỉ
Nếu tính số Sắc Chỉ bắt đạo, dưới thời Tự Ðức lên tới 13 Sắc Chỉ ban hành vào những năm 1848, 1851, 1855. Riêng trong năm 1857 có 4 Sắc Chỉ, năm 1859 có 2 Sắc Chỉ, và năm 1860 có 4 Sắc Chỉ cuối cùng. Nhiều lệnh như thế minh chứng quyết tâm nhà vua muốn tận diệt Ðạo Thiên Chúa bằng mọi giá, và tận diệt suốt trong 36 năm chấp chính. Chúng ta sẽ thấy nội dung những sắc lệnh đó khủng khiếp tới mức độ nào!
Ðạo Công Giáo được định nghĩa không những như một Tả Ðạo mà còn tệ hơn nữa, như một tôn giáo xấu xa, "một dịch tể". (Sắc Chỉ 7-6-1857)
Lệnh cho các xã uỷ, cai tổng (Sắc Chỉ tháng 5 năm 1857): Ai không tuân theo sẽ bị cách chức (sắc Chỉ 7-6-1857)
Lệnh cho Triều Ðình và các Quan địa phương (Sắc Chỉ 24-8-1860).
Theo các sắc lệnh trên đây, phải bắt tất cả mọi thành phần Công Giáo.
Hết mọi thanh niên trên 15 tuổi phải trình diện thường xuyên theo thời gian nhất định (lệnh 17-1-1860). Người Công Giáo, dù học giỏi, có khả năng, cũng không được giữ chức vụ nào (lệnh 19-9-1855).
Ðặc biệt nhắm vào giới ngư phủ, vì họ luôn luôn di chuyển và thường là chỗ ẩn náu cho các Ðạo Trưởng (lệnh 18-9-1855).
Những người chứa chấp Ðạo Trưởng sẽ bị phân thân và buông sông (lệnh 30-3-1851).
Giáo dân không chịu đạp Thánh Giá sẽ bị khắc hai chữ Tả Ðạo trên mặt và đi đầy biệt xứ (lệnh 18-9-1855). Ai cố chấp xưng đạo: Ðàn ông sẽ bị cưỡng bách tòng quân, đàn bà bị tuyển làm nô tì cho các quan (lệnh 7-6-1857)
Bắt các thành phần trong Hội Ðồng Giáo Xứ (lệnh tháng 10 năm 1959)
Binh sĩ Công Giáo không đạp ảnh Thánh Giá sẽ bị giải ngũ, bị khắc hai chữ Tả Ðạo và bị đầy chung thân (lệnh tháng 12-1859).
Giới Quan Lại Công Giáo: cả những ai đã chối Ðạo cũng bị cách chức. Những ai trung kiên sẽ bị trảm quyết (lệnh 15-12-1859).
Các nữ tu, không được cấp giấy thông hành để di chuyển ngoài địa phương mình đang ở. Vì họ là những liên lạc viên đắc lực. Ai không tuân lệnh sẽ bị tù chung thân, hay làm nô tì cho các Quan (lệnh 17-1-1860 và lệnh tháng 7-1860).
Các Linh Mục Việt Nam, đạp Thánh Giá hay không đều bị phân thân để nêu gương. Linh Mục ngoại quốc thì bị trảm quyết, đầu phải treo luôn 3 ngày, rồi buông sông hay ném xuống biển (lệnh 15-9-1855).
Các cơ sở Công Giáo, bị đốt phá và tiêu huỷ (lệnh 18-9-1855 và 8-12-1857). Nhất là cơ sở tại Vĩnh Trị, phải phá huỷ bình địa (lệnh 1-12-1857).
Hình ảnh lăng mộ của các Linh mục qua đời tại giáo xứ.
2. Những Cuộc Bách Hại Do Nhóm Văn Thân (1885-1886):
Chính lý ra những cuộc bách hại đã chấm dứt dưới thời Tự Ðức, vì theo khoản 9 của hiệp ước Giáp Tuất ký giữa Việt Nam và nước Pháp ngày 15-3-1874, vua Tự Ðức đã ký nhận "quyền tự do theo Ðạo và hành Ðạo của người Công Giáo". Tuy nhiên lịch sử còn ghi chép là sau vua Tự Ðức, sự bắt bớ cộng đoàn Công Giáo Việt Nam vẫn tiếp tục, không kém phần dữ dội tàn bạo, và diễn tiến trong hoàn cảnh rối ren khác biệt. Các vua kế vị Tự Ðức là:
- Hiệp Hoà, lên ngôi chấp chính được 4 tháng rồi sau đó bị ép buộc phải uống thuốc độc quyên sinh.
- Kiến Phúc, lên ngôi lúc mới 15 tuổi.
- Hàm Nghi, lên kế vị lúc 12 tuổi.
Do đó, mọi quyền hành điều khiển quốc sự, giữa lúc đang phải đương đầu với ngoại xâm lại nằm trong tay các vị đại thần: Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Kết quả đưa đến chỗ đại bất hạnh cho đất nước: Qua hai hiệp ước 1883 và 1884, Việt Nam mất nước về tay Thực Dân. Lãnh thổ chia làm 3, Nam kỳ và các thành phố Qui Nhơn, Ðà Nẵng, Vinh, Hải Phòng và Hà Nội trở thành thuộc địa Pháp. Từ Thanh Hoá vào đến Bình Thuận thuộc Nam Triều, từ Ninh Bình ra Bắc do Khâm Sai Bắc Kỳ nhưng cả Trung và Bắc đều đặt dưới quyền Bảo Hộ của Pháp. Quyền thần Tôn Thất Thuyết mưu đánh úp Pháp ở thành Mang Cá nhưng thất bại, kinh thành Huế chìm trong biển lửa và chết chóc. Vua Hàm Nghi bỏ kinh thành chạy về Tân Sở, xuống chiếu Cần Vương kháng Pháp. Như một cục than hồng ném vào biển dầu, phong trào Văn Thân Cần Vương bùng lên khắp nơi, tự động tự phát, với khẩu hiệu "Bình Tây Sát Tả" lan rộng trên khắp ba miền Bắc Trung Nam, và con vật hy sinh, một lần nữa, cũng lại là người Công Giáo rải rác trên khắp toàn quốc! Cuộc bách hại tàn ác vì lợi dụng hoàn cảnh "đục nước béo cò": chỉ trong mấy năm Văn Thân, số người Công Giáo bị tàn sát vì tín ngưỡng đã lên cao gần bằng tổng số tín hữu đã hy sinh trong hơn hai thế kỷ bách hại, từ đời các Chúa Trịnh Nguyễn cho tới hết đời Tự Ðức. Những cuộc tàn sát thật ác liệt rùng rợn, từng lớp người, kể ra từng trăm từng ngàn, cứ mỗi lần phải qua một cơn bách hại là cứ tiếp tục ngã xuống, như những trái sung rụng trước cơn gió lộng!
Trọng điểm nhất là thời kỳ này giáo xứ Làng Anh đã cùng chịu chung số phận mọi người công giáo. Phong trào Văn Thân, Cần Vương với khẩu hiệu "Bình Tây Sát Tả" giáo dân xứ Làng Anh cũng đã chứng kiến nhiều cuộc tử đạo tập thể tại quảng trường Quán Bàu.
3. Phong trào giảm tô cải cách: 1930 -1931 những cuộc mit-tinh, biểu tình đốt phá các nhà tri huyện rồi kéo đến nhà thờ xứ. Nhưng do sự khôn khéo, biến báo cha ông, giáo xứ Làng Anh đã nhanh chóng bố trí cảnh thờ tự thành nơi chùa chiền, họ đã xây cất các đền miếu giả trong thôn làng, cất dấu đồ thờ tự, kiệu rồng nơi bàu sâu (Kiệu rồng 157 năm nay còn lưu giữ tại giáo xứ ) nên những đoàn quân của Văn Thân lướt qua mà xứ đạo không bị tàn phá, Giáo xứ Làng Anh lúc đó lại là nơi ẩn náu an toàn cho các nhà thừa sai.
4. Giai đoạn chia đôi đất nước: 1951 - 1952 (dập tắt được tổ chức Liên Ðoàn Công giáo) sau đó không lâu hiệp định Genève chia đôi đất nước rơi vào cảnh chiến tranh tang tóc của 2 miền Nam Bắc, giáo xứ Làng Anh cũng theo vận mệnh chung của đất nước, nhà thờ, nhà xứ đều bị bom bỏ tan hoang, hiện còn dấu tích của chiến tranh, 2 hố bom bên nhà phòng nay là ao cá, những trân mưa bom làm cho nhà xứ bị chôn vùi trong đống đất, đó là những ngày kinh hoàng nhất, có ngày số chết 40 người, nhưng đặc biệt nhờ sự che chở của Mẹ Maria người công giáo lại không bị tổn thất về nhân mạng.
IV. Những Biến Ðộng Dân Số
1. - 1945 bị nạn đói một số đông giáo dân Làng Anh phải đi tha phương cầu thực và bị chết đói không trở lại.
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Việt Nam. Trước tình thế này vai trò của các vị Thừa Sai ngoại quốc càng trở nên khó khăn và số ứng sinh linh mục Việt Nam đủ điều kiện làm con số linh mục tăng thêm nhiều. Toà thánh quyết định "Việt Nam Hoá" hệ thống lãnh đạo Giáo Hội qua việc trao cho Giám Mục bản quốc: Hà Nội cho Ðức Cha Trịnh Như Khuê năm 1950, Bắc Ninh cho Ðức Cha Hoàng Văn Ðoàn năm 1950, Vinh cho Ðức Cha Trần Hữu Ðức năm 1951, Hải phòng cho Ðức Cha Trương Cao Ðại năm 1953.
2. Năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước khiến gần 750,000 giáo dân Công Giáo miền Bắc phải di cư vào miền Nam, một nửa giáo dân Làng Anh cũng theo đoàn di cư khăn gói lên đường vào Nam. Dân số Làng Anh sau biến cố này cả xứ chỉ còn lại 775 người. Cuộc sống thầm lặng chung của giáo hội Miền Bắc dã kéo dài 40 năm chia cắt 2 miền Nam Bắc dân số công giáo tại Giáo xứ Làng Anh cũng 2,000 nhân khẩu.
3. - 1975 biến cố thống nhất Ðất Nước, lại một lần nữa khoảng 400 người lại lên đường vào miền Nam làm kinh tế, con số hiện nay còn 1,600 người chia làm 4 giáo họ:
Họ Làng Anh, Họ Ân Hậu, Họ Tân Thành, Họ Kim Ân.
Nằm trên địa bàn hành chính của 3 xã: xã Nghi Phong, xã Nghi Ðức, xã Nghi Ân thuộc huyện Nghi Lộc, diện tích tổng quát chiều rộng 2.5 km rải dài 5 km tổng cộng 11km2. Tất cả các giáo họ đều có nhà thờ. Nơi trung tâm phụng vụ chung của cộng đoàn là nhà thờ giáo xứ đã được xây dựng lại năm 1995 do linh mục Phêrô Nguyễn Văn Thiện.
Ðược sự chăn dắt của các Chủ Chăn, giáo dân Làng Anh đã sớm ý thức về ơn gọi và chỗ đứng của mình trong Giáo Hội, nỗ lực làm việc tông đồ và góp phần rất xứng đáng trong công việc xây dựng Giáo Xứ và sống đạo trong mọi hoàn cảnh.
Subscribe to:
Post Comments
(
Atom
)
0 comments :
Post a Comment